Beethoven Piano Sonata Cycle: Recital I “WALDSTEIN” (28.7.2023)
12/07/2023In The Key Of G Minor (27.8.2023)
10/08/2023GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
WOLFGANG AMADEUS MOZART (1756-1791)
Piano Quartet No. 1 in G minor, K. 478 (1785)
Tứ tấu piano giọng Sol thứ, K. 478, là bản đầu tiên trong số hai tác phẩm mà Wolfgang Amadeus Mozart sáng tác cho dàn nhạc thính phòng gồm violin, viola, cello và piano. Mozart hoàn thành tác phẩm tại Vienna vào ngày 16 tháng 10 năm 1785. Bản Tứ tấu piano thứ hai, ở giọng Mi giáng trưởng, K. 493, được hoàn thành vào tháng 6 năm sau.
Franz Anton Hoffmeister, một nhà xuất bản âm nhạc và nhà soạn nhạc người Áo, đã xuất bản Tứ tấu piano bản thứ nhất Sol thứ, K. 478, vào tháng 12 năm 1785. Có vẻ vào thời điểm sáng tác và xuất bản Tứ tấu, Mozart đang gặp một số khó khăn về tài chính. Vào ngày 20 tháng 11 năm 1785, Mozart đã viết cho Hoffmeister như sau:
“Hoffmeister thân mến!
Trong lúc túng quẫn, tôi tìm đến ngài và cầu xin ngài giúp tôi một ít tiền mà tôi đang rất cần vào lúc này… Thứ lỗi cho tôi vì đã liên tục làm ngài bận tâm, nhưng vì ngài biết tôi và ngài hiểu rằng tôi luôn ủng hộ công việc kinh doanh của ngài, tôi tin chắc rằng ngài sẽ lượng thứ cho những quấy rầy của tôi và rằng ngài sẽ sẵn sàng giúp đỡ tôi như tôi sẽ giúp ngài.”
Theo Georg Nikolaus Nissen (người chồng sau của vợ Mozart, bà Constanze Mozart), Tứ tấu piano bản thứ nhất giọng Sol thứ dự kiến là bản đầu tiên trong số ba Bản Tứ tấu piano của Mozart, sẽ được xuất bản bởi Hoffmeister. Tuy nhiên, theo Nissen cho biết: “Lúc đầu Hoffmeister cho rằng tứ tấu piano này quá khó và công chúng sẽ không mua nó, vì vậy Hoffmeister đã gửi ứng trước cho Mozart khoản tiền thù lao, và ông cũng đã giải phóng Mozart khỏi nghĩa vụ hoàn thành bộ tác phẩm này.”
Mặt khác, Maynard Solomon, trong tiểu sử của mình (Mozart: A Life, HarperCollins, New York, 1995), cho rằng Hoffmeister:
“vẫn tiếp tục ủng hộ ấn phẩm đầu tiên này của Mozart này đến nỗi ông còn cho in 11 tác phẩm khác của Mozart trong vòng ba hoặc bốn năm kế tiếp. Trong số này bao gồm một số sáng tác nổi bật của Mozart, chẳng hạn như Tứ tấu đàn dây giọng Đô trưởng, K. 499 (“Hoffmeister”), bản Fugue giọng Đô thứ cho hai đàn piano, K. 426, và bản Sonata giọng Đô thứ cho song tấu piano, K. 521.”
Không còn nghi ngờ gì nữa, Tứ tấu piano K. 478, đặt ra những thách thức kỹ thuật đáng kể đối với cả bốn nghệ sĩ. Và, rất có thể bản chất u tối và trầm tư của một số khúc nhạc—tiêu biểu cho các tác phẩm của Mozart ở giọng Sol thứ—đã khiến những khán giả ban đầu ngạc nhiên. Hiện nay Tứ tấu piano giọng Sol thứ được công nhận rộng rãi là một trong những tác phẩm thính phòng hay nhất và ấn tượng nhất của Mozart.
Tác phẩm gồm 3 chương:
I. Allegro—Tứ tấu mở đầu theo phong cách nổi bật, với cuộc đối thoại ngắn gọn giữa dàn nhạc và piano, giới thiệu chủ đề chính đầu tiên của Allegro. Một giai điệu phím chính trôi chảy được xử lý đa dạng và mở rộng, tiếp theo là một chuỗi vui tươi hơn, được trình bày bởi violin. Phần trình bày kết thúc với mô-típ đi xuống, ban đầu được chơi bởi violin, sau đó được lặp lại bởi piano. Phần phát triển bắt đầu một cách nhẹ nhàng, nhưng nhanh chóng trở nên khá kích động. Việc trình bày lại chủ đề mở đầu một cách mạnh mẽ như là quá trình tóm tắt lại, làm cơ sở cho các thủ pháp kết thúc ngắn gọn.
II. Andante—Trong chương hai, các cung bậc cảm xúc ngắn gọn của Allegro mang lại chất trữ tình say mê. Tại đây nhịp độ chậm với một loạt các thanh điệu theo trật tự, đáng chú ý là quá trình tương tác giữa piano và bộ dây. Tiếp đó, các chuỗi thanh điệu này được trình bày lặp lại với biến thể và kết thúc rất nhẹ (pianissimo).
III. Rondo. Allegro—Ngay từ những nốt đầu tiên, piano ngay lập tức, thoăn thoắt giới thiệu chủ đề chính Rondo. Rondo, đến thởi điểm này, là đoạn vui tươi hân hoan nhất trong tác phẩm, mặc dù ngay cả ở đây, những đám mây bão thỉnh thoảng làm tối đường chân trời. Tuy nhiên, tất cả chúng đều bị xua tan bởi các thủ pháp kết thúc đầy hân hoan.
Nguồn: Ken Meltzer – Savannah Music Festival
Người dịch: Trần Ngọc Dương
JOHANNES BRAHMS (1833-1897)
Piano Quartet No. 1 in G minor, Op. 25 (1856-61)
Tứ tấu Piano số 1 giọng Sol thứ, Tập 25 được sáng tác vào năm 1861 và xuất bản năm 1863. Tác phẩm được dành tặng cho Nam tước R. von Dalwigk. Buổi biểu diễn đầu tiên diễn ra ở Hamburg, với Clara Schumann chơi piano.
Năm 1862, nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm 29 tuổi Johannes Brahms đến sinh sống ở Vienna, thủ đô thế giới âm nhạc phương Tây. Chàng trai trẻ đã tự giới thiệu mình với giới tinh hoa âm nhạc của thành phố với Tứ tấu Piano giọng Sol thứ, bản đầu tiên trong bộ ba tác phẩm của ông. Các thành viên của Tứ tấu Hellmesberger, một trong những ban nhạc thính phòng hàng đầu của Vienna, đã xem tác phẩm cùng nhà soạn nhạc bên cây đàn piano; khi kết thúc, nghệ sĩ violin Joseph Hellmesberger đã nhảy khỏi ghế của mình, nhiệt tình tuyên bố, "Đây chính là truyền nhân của Beethoven!"
Tứ tấu đánh dấu quá trình trưởng thành sớm của Brahms. Theo đó, khi gần ba mươi tuổi, nhà soạn nhạc đã có thể hấp thu hoàn toàn những ảnh hưởng từ Bach, Beethoven và Schubert, và hình thành nên một phong cách sáng tác hoàn chỉnh. Thời kỳ này Brahms nổi bật với một kho tác phẩm thính phòng xuất sắc: hai bản Lục tấu đàn dây, tập 18 và 36; Ngũ tấu piano tập 34; Cello Sonata tập 38; Bộ ba kèn tập 40; và hai Tứ tấu piano đầu tiên tập 25 và 26. (Thật vậy, Brahms sẽ không sáng tác bản giao hưởng đầu tiên của mình cho đến năm 1876, ông giải thích, khi bị thúc ép rằng, “Chúng ta không biết cảm giác thế nào khi nghe thấy tiếng bước chân của một người khổng lồ như Beethoven phía sau mình đâu!”).
Tập 25 được biết đến nhiều nhất với phần cuối sôi động, Rondo alla Zingarese (Gypsy Rondo) nổi tiếng. Điệp khúc không thể cưỡng lại, phản ánh niềm đam mê trọn đời của Brahms với âm nhạc dân gian Hungary, đồng thời cho thấy bàn tay của một nhà soạn nhạc bậc thầy, người có thể tạo ra một bản “hit” một cách dễ dàng.
Tuy nhiên, ngay từ hơi thở mở đầu, Tứ tấu đã thể hiện kỹ năng phi thường — Brahms thực sự xứng đáng là truyền nhân của Beethoven, ông đã xây dựng Bản giao hưởng thứ 5 đáng sợ của mình từ bốn nốt nhạc vô thưởng vô phạt. Tứ tấu piano Sol thứ cũng bắt đầu bằng một đoạn bốn nốt, do đàn piano trình bày ở các quãng tám — tiếp theo là bốn nốt tương tự, đảo ngược; rồi đoạn đảo ngược lại, chuyển xuống một đoạn thứ tư; sau đó là lần cuối cùng, nhưng với nốt thứ hai và thứ ba được lồng vào như một hợp âm.
Theo phong cách của Beethoven, cử chỉ nửa bước kết thúc liên tiếp này đóng vai trò như những nét bút nhỏ trước khi chuyển động thành hình.
Thật vậy, việc lắng nghe kỹ từng chương trong số bốn khúc của Tứ tấu có liên quan đến nửa giọng này trong toàn bộ tác phẩm. Nó xác định đường nét du dương của giai điệu mở đầu của Intermezzo: một tuyên bố về sức mạnh thầm lặng, được thể hiện một cách ngọt ngào và biểu cảm trong những khoảng lặng của đàn dây và piano.
Chủ đề bắt đầu bằng đoạn Andante con moto (tương đối chậm) đẹp mê hồn, giống như một vật trang trí theo phong cách Baroque trong chuyển động chậm, với vòng quanh nửa giọng tăng dần.
Khi đến chương Rondo alla Zingarese (đoạn phong cách Gypsy), đôi tai tinh tường sẽ phát hiện ra rằng không chỉ nửa giọng chính mà còn cả cụm bốn nốt dài hơn khi bắt đầu bản Tứ tấu.
Âm nhạc quyến rũ của Brahms là thành quả nhiều năm khổ luyện của ông. Khúc cuối cùng này, phong phú với sự ngọt ngào, biểu thị một hành trình đầy cảm xúc — điều thực sự cho thấy Brahms là truyền nhân của Beethoven, nhưng cũng khẳng định một phong cách sáng tác độc đáo và mạnh mẽ của riêng Brahms.
Nguồn: Patrick Castillo – Friends of Music
Người dịch: Trần Ngọc Dương
GIỚI THIỆU NGHỆ SĨ
CHƯƠNG VŨ
Được nhạc sĩ Yehudi Wyner, người từng đoạt giải thưởng sáng tác Pulitzer, ca ngợi có phong cách chơi đàn “tinh tế và giàu chất thơ”, Chương Vũ đã biểu diễn với tư cách là một nghệ sĩ độc tấu và hòa tấu thính phòng khắp Bắc và Nam Mỹ, Châu Âu và Châu Á với vốn tiết mục âm nhạc từ tiền cổ điển đến đương đại. Thời báo Sài Gòn Times viết rằng "Chương Vũ là một nghệ sĩ đáng được trân trọng. Anh không chỉ sở hữu một tiếng đàn đẹp và kỹ thuật điêu luyện, mà còn biểu diễn với một sự đam mê âm nhạc hiếm có."
Chương đã xuất hiện với tư cách nghệ sĩ độc tấu với Dàn nhạc Giao hưởng Hà Nội, Dàn nhạc Giao hưởng Thành phố Hồ Chí Minh (HBSO), Dàn nhạc Giao hưởng Mặt Trời, Dàn nhạc các nghệ sĩ Cổ điển Việt Nam và Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia Việt Nam (Việt Nam), Dàn nhạc Giao hưởng Mặt Trời Đài Bắc (Đài Loan), Dàn nhạc Phát thanh và Truyền hình Slovakia (Slovakia), Dàn nhạc giao hưởng Amazon (Brazil), Dàn nhạc giao hưởng Chihuahua (Mexico), Dàn nhạc giao hưởng San Angelo, Dàn nhạc giao hưởng Richardson, Dàn nhạc giao hưởng Plano, Dàn nhạc giao hưởng Wichita Falls và Dàn nhạc UNT Baroque (Mỹ), cùng một số các dàn nhạc khác. Là một nghệ sĩ nhạc Thính phòng năng động, anh đã biểu diễn tại nhiều liên hoan âm nhạc như Liên hoan âm nhạc quốc tế Pará (Brazil), Liên hoan âm nhạc tiền cổ điển Boston, Liên hoan âm nhạc Manchester, Liên hoan âm nhạc Texas, đồng thời xuất hiện trong nhiều chương trình âm nhạc uy tín như Giới thiệu Các Nghệ sĩ Thính phòng Dallas, Biểu diễn trực tiếp tại Phòng hòa nhạc Steinway và Âm nhạc Thính phòng Quốc tế. Các nghệ sĩ đáng chú ý mà anh đã cộng tác trong các buổi biểu diễn concerto và nhạc thính phòng bao gồm các nghệ sĩ violon Stephanie Chase, Nai-Yuan Hu, Kyung Sun Lee, Cynthia Roberts, Vilmos Szabadi, Chen Xi và Bùi Công Duy, nghệ sĩ viola Susan Dubois, nghệ sĩ cello Eugene Osadchy, nghệ sĩ contrabass Jeff Bradetich, nghệ sĩ dương cầm Jean Louis Haguenauer và nghệ sĩ đàn harpsichord Christoph Hammer.
Chương Vũ tốt nghiệp Cử nhân và Thạc sĩ âm nhạc từ Đại học Houston và Tiến sĩ âm nhạc từ Đại học Bắc Texas. Các giáo sư hướng dẫn chính của anh bao gồm Fredell Lack, Emanuel Borok, Albert Muenzer, Phillip Lewis, Cynthia Roberts, Nguyễn Anh Giang và Bùi Công Thành. Ngoài cương vị hiện tại là giáo sư violin tại Học viện Nghệ thuật Châu Âu, Tiến sĩ Chương Vũ đã từng đảm nhiệm các vị trí giảng dạy tại Đại học Bắc Texas và Đại học Texas ở Arlington. Anh đã dạy các lớp học nâng cao ở Mỹ, Brazil, Ba Lan, Đức, Đài Loan và Việt Nam. Năm 2019, anh đảm nhiệm vai trò Phó Trưởng Ban Tổ chức kiêm thành viên Ban Giám khảo Cuộc thi âm nhạc Quốc tế Việt Nam dành cho Violon và Nhạc thính phòng. Năm 2020, anh được mời tham gia ban giám khảo sơ tuyển cho Cuộc thi Quốc tế George Enescu (Romania).
Với vai trò là Giám đốc Nghệ thuật của Liên hoan âm nhạc Vietnam Connection và Cố vấn Nghệ thuật của Cuộc thi âm nhạc Quốc tế Việt Nam, Tiến sĩ Chương Vũ góp phần tích cực trong việc biên soạn và dàn dựng các chương trình biểu diễn, mời các nghệ sĩ quốc tế và tìm kiếm các tài trợ mới.
GRACE HO
Nghệ sĩ cello người Mỹ gốc Đài Loan Grace Ho là một nghệ sĩ độc tấu và hòa tấu thính phòng năng động ở Hoa Kỳ và Châu Á. Grace đã xuất hiện với tư cách nghệ sĩ độc tấu cùng các dàn nhạc như Dàn nhạc Giao hưởng Hạ Môn, Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia Việt Nam, Dàn nhạc Giao hưởng Thành phố Hồ Chí Minh, Dàn nhạc Giao hưởng Evergreen, Dàn nhạc Giao hưởng Sun Taipei, Dàn nhạc Giao hưởng Lewisville Lake, Dàn nhạc Vienna, Dàn nhạc Kansas Wesleyan, Dàn nhạc Philharmonic của Trường Âm nhạc Manhattan, Dàn nhạc Thính phòng Đại học Bắc Texas và Dàn nhạc Giao hưởng Đại học Quốc gia Đài Loan.
Grace đã biểu diễn tại Carnegie Hall, Harbin Grand Theatre, Jordan Hall, Trung tâm Giao hưởng Meyerson, Nhà hát Quốc gia Đài Loan, Nhà hát Lớn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Cô là nghệ sĩ solo trong Toyota Tour 2018 tại Việt Nam.
Grace là thành viên sáng lập của Tứ tấu đàn dây Ulysses, tứ tấu đàn dây thường trực tại Trường Juilliard 2019-2022 dưới sự bảo trợ của Quỹ Lisa Arnhold. Ulysses đã đạt Giải Grand Prix Cuộc thi Âm nhạc Quốc tế Việt Nam năm 2019, Giải Nhất Cuộc thi Đàn dây Quốc tế Schoenfeld 2018, Giải Nhất và Huy chương Vàng Cuộc thi Fischoff 2016, Giải Nhì Cuộc thi Âm nhạc Thính phòng Quốc tế Osaka lần thứ 9 và Giải Nhất Giải thưởng âm nhạc Mỹ 2017. Các buổi biểu diễn nổi bật gần đây của nhóm bao gồm Kammermusik Basel ở Thụy Sĩ, Sociedad Filarmónica de Lima ở Peru, Fundación Juan March ở Madrid (Tây Ban Nha), Đại học Nacional Autónoma de México (UNAM), Hiệp hội Âm nhạc Thính phòng Utica ở New York, tứ tấu đàn dây thường trực tại Đại học Louisiana và Đại học Ithaca, Lễ hội Âm nhạc ClassicAnd ở Andorra và Nhạc thính phòng Edmonton ở Canada. Vào mùa thu năm 2023, Ulysses sẽ phát hành album đầu tay của riêng mình. Grace cũng là nghệ sĩ bè trưởng cello khách mời của Dàn nhạc Giao hưởng Miami.
Grace đã nhận bằng Tiến sĩ và Thạc sĩ Âm nhạc tại Trường Âm nhạc Manhattan và bằng Cử nhân của Đại học Bắc Texas. Các giáo sư chính của cô bao gồm David Geber, Clive Greensmith và Eugene Osadchy.
YI-WEN CHAO
Được cố nhạc trưởng Sergiu Comissiona đánh giá là một nghệ sĩ có phong cách chơi nhạc "mạnh mẽ, thông minh và giàu cá tính", Yi-Wen Chao là nghệ sĩ viola người Đài Loan/Trung Quốc đầu tiên được nhận bằng Tiến sĩ Âm nhạc từ Trường Juilliard, nơi cô theo học với Paul Neubauer và Samuel Rhodes. Tiến sĩ Chao đã ba lần liên tiếp được trao tặng học bổng của Hiệp Hội Văn hóa Châu Á. Cô đã giành được giải thưởng tại Cuộc thi Artists International Debut Audition ở New York, Cuộc thi Concerto của Trường Juilliard, Cuộc thi độc tấu Viola quốc gia tại Nhạc viện Trung tâm Bắc Kinh, Cuộc thi Concerto của Liên hoan âm nhạc Verbier và Cuộc thi Concerto Quốc gia Đài Loan.
Tiến sĩ Chao đã có buổi biểu diễn ra mắt tại Phòng hòa nhạc Weill trực thuộc Carnegie Hall vào năm 2006, trong đó nổi bật là hai tác phẩm lần đầu tiên được biểu diễn ở New York là Canto XVI cho viola solo của Samuel Adler và Vocalise cho viola và piano của Philip Lasser. Cô đã được mời biểu diễn tại Trung tâm Âm nhạc Tanglewood, Học viện Âm nhạc Quốc tế Mùa hè tại Leipzig, Liên hoan Âm nhạc Thái Bình Dương, Trường Nghệ thuật Fontainebleau Hoa Kỳ tại Pháp và Học viện Âm nhạc Verbier. Với tư cách là một nghệ sĩ thính phòng, cô đã cộng tác với Chantal Juillet, Stephen Hough, Isabelle Duha, Tứ tấu đàn dây Great Wall, Tứ tấu đàn dây Diotima, Tứ tấu Lydian, Nobuko Imai và Paul Katz.
Tiến sĩ Chao đã giảng dạy các lớp học nâng cao tại Nhạc viện Thượng Hải, Nhạc viện Trung ương Bắc Kinh, Đại học New York, Học viện và Liên hoan Âm nhạc Quốc tế Bắc Kinh, Liên hoan Âm nhạc Vietnam Connection và Liên hoan Viva Viola Hsin-Yun Huang. Năm 2001, cô đã phát hành album thu âm đầu tiên, “Songs, Recollections”, trong đó có các tác phẩm đương đại viết riêng cho cô lần đầu tiên được ra mắt trên toàn thế giới. Cô hiện là Giáo sư Viola biên chế tại Đại học Nghệ thuật Quốc gia Đài Bắc và gần đây cô đã được bổ nhiệm làm thành viên ủy ban cố vấn của Hội đồng Nhà hát & Phòng hòa nhạc Quốc gia Đài Loan.
MAX LEVINSON
Nghệ sĩ dương cầm Max Levinson được biết đến là một nghệ sĩ thông minh, nhạy cảm với kỹ thuật điêu luyện. Sự nghiệp quốc tế của anh bắt đầu khi anh giành giải Nhất tại Cuộc thi Piano Quốc tế Dublin. Anh cũng đã nhận được các giải thưởng danh giá khác bao gồm Avery Fisher Career Grant và Andrew Wolf Award. Anh đã biểu diễn với tư cách nghệ sĩ độc tấu với Dàn nhạc giao hưởng Los Angeles Philharmonic, Dàn nhạc giao hưởng St. Louis, Dàn nhạc giao hưởng Detroit, Dàn nhạc giao hưởng San Francisco, Dàn nhạc giao hưởng Baltimore, Dàn nhạc thính phòng St. Paul, Dàn nhạc giao hưởng Oregon, Dàn nhạc giao hưởng Indianapolis, Dàn nhạc giao hưởng Colorado, Dàn nhạc giao hưởng New World, Dàn nhạc giao hưởng Utah, Dàn nhạc giao hưởng Boston Pops, Dàn nhạc giao hưởng Mặt Trời (Hà Nội, Việt Nam) và Dàn nhạc giao hưởng Quốc gia Ireland. Anh đã biểu diễn độc tấu tại Alice Tully Hall ở New York, Trung tâm Kennedy ở Washington DC, Wigmore Hall ở London, Tonhalle ở Zürich, Musee d'Orsay ở Paris, và trên khắp Hoa Kỳ, Canada, Châu Âu và Châu Á. Anh rất được săn đón với tư cách là một nghệ sĩ biểu diễn nhạc thính phòng. Anh là Nghệ sĩ-Thành viên của Hội Âm nhạc Thính phòng Boston và đã hợp tác với các nghệ sĩ như James Ehnes, Augustin Hadelich, Anne Akiko Meyers, Pinchas Zukerman, Stefan Jackiw, Lynn Harrell và các tứ tấu đàn dây Tokyo, Vermeer, Mendelssohn, Borromeo, Muir và Ulysses.
Max Levinson tốt nghiệp từ Harvard và Nhạc viện New England. Các giáo sư chính của anh bao gồm Patricia Zander, Aube Tzerko và Bruce Sutherland. Anh hiện đang giảng dạy tại Nhạc viện Boston và Nhạc viện New England, và thường xuyên được mời dạy các lớp nâng cao tại các nhạc viện và các trường đại học trên khắp thế giới. Max Levinson là một Nghệ sĩ Steinway.